GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG CHO HỌC SINH THÔNG QUA BÀI HỌC “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” CỦA LƯU QUANG VŨ.
Chuyên đề tháng 2
Người báo cáo: Nguyễn Thị Thu Hương
I. Lí do chọn đề tài
Giáo dục giá trị sống, nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa thanh niên, học sinh với thiên nhiên, xã hội, con người... luôn là mục tiêu quan trọng của mọi nền giáo dục trên thế giới. Giá trị sống là những tiêu chí cần thiết trong quá trình sống, quá trình rèn luyện của lứa tuổi vị thành niên.
Ở nước ta, chương trình giáo dục đã nhiều lần được cải cách, điều kiện sống, học tập của học sinh ngày một nâng cao, nhưng nhiều vấn đề tiêu cực như bạo lực, tệ nạn xã hội… vẫn gia tăng, xâm nhập vào trường học, dẫn đến những suy thoái về đạo đức. Nguyên nhân cơ bản là do học sinh chưa nhận thức đúng, chưa tôn trọng giá trị sống như: Hoà bình, Tôn trọng, Yêu thương, Trách nhiệm, Hạnh phúc, Trung thực, Bao dung, Hợp tác, Khiêm tốn, Giản dị, Đoàn kết, Tự do.
Nhà trường, tổ chức Đoàn, gia đình và các tập thể học sinh đã quan tâm đến hoạt động giáo dục tri thức văn hóa, xã hội, đạo đức, ý thức công dân... cho học sinh. Tuy nhiên, việc giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT vẫn là bài toán khó khi nhà trường vẫn chưa tìm được phương pháp giáo dục phù hợp, hiệu quả với học sinh lứa tuổi THPT.
Văn học- nghệ thuật có khả năng tác động vào cảm xúc, thẩm mỹ (vô thức) để tạo thành nhận thức (có ý thức), làm thay đổi hành vi, phẩm chất cho con người. Vì vậy, tận dụng thế mạnh của Văn học- nghệ thuật để tạo tác động vào nhận thức thẩm mỹ nhằm truyền tải và giáo dục về Giá trị sống cho học sinh THPT là một trong những hình thức giáo dục hiệu quả.
Chuyên đề “Giáo dục giá trị sống cho học sinh qua bài dạy “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.” nhằm mục đích khẳng định khả năng tác động của Văn học nghệ thuật đến việc truyền tải Giá trị sống cho học sinh THPT, bổ sung có hiệu quả cho sự thiếu hụt về giáo dục Giá trị sống cho học sinh trong nhà trường THPT hiện nay. Tiến tới đề xuất vào chương trình giảng dạy của nhà trường về những chủ đề giáo dục Giá trị sống cho học sinh THPT thông qua một số giờ dạy- học Ngữ văn .
II. Nội dung
1. Gía trị sống và giáo dục giá trị sống cho học sinh THPT.
1.1. Khái niệm giá trị sống
Giá trị là cái được xác định có ích, có hiệu quả trong cuộc sống vật chất và tinh thần, là những gì có ích, có ý nghĩa, là động lực thúc đẩy hoạt động của chủ thể.
Giá trị sống: là tất cả những cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, quý giá, quan trọng, có ý nghĩa đối với cuộc sống, khiến mỗi người đều mong muốn lĩnh hội, thể hiện, để cuộc sống của mình tốt đẹp hơn và góp phần cải thiện cuộc sống chung.
Giá trị sống cũng có nguồn gốc, hình thành, biến đổi, duy trì… theo những quy luật xã hội. Trong giáo dục, Giá trị sống chủ yếu hướng vào bình diện cá nhân.
Giá trị sống chủ yếu là những giá trị tinh thần (không đề cập giá trị vật chất, tiền bạc, giàu sang, sức khỏe…) với các bình diện:
- Những giá trị về phẩm chất nhân cách, đạo đức bản thân. (Bao dung, Khiêm tốn, Giản dị, Trung thực, Yêu thương, Hạnh phúc).
- Những giá trị quan hệ liên nhân cách, quan hệ với nhóm, với cộng đồng… (Tôn trọng, Hợp tác, Đoàn kết, Trách nhiệm).
- Những giá trị chung (Hoà bình, Tự do).
Theo những tài liệu về giáo dục giá trị sống của Liên Hợp Quốc, Diane Tillman chia thành 12 giá trị sống cơ bản: hoà bình, tôn trọng, yêu thương, trách nhiệm, hạnh phúc, trung thực, bao dung, hợp tác, khiêm tốn, giản dị, đoàn kết, tự do.
1.2. Giáo dục giá trị sống trong nhà trườngTHPT
Giáo dục giá trị sống là một khái niệm có mặt trong Chương trình Giáo dục, đào tạo của ngành giáo dục và của xã hội. Giáo dục giá trị sống nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây:
- Giúp mỗi cá nhân suy nghĩ,nhận thức về những giá trị khác nhau, những tác động thực tế khi họ tự nói về mình (với chính họ, với người khác, với cộng đồng và rộng hơn nữa là với thế giới).
- Cung cấp những nguyên tắc hướng dẫn và các công cụ giúp cho sự phát triển của mỗi con người đi tới hoàn thiện, toàn diện cả về thể chất, trí tuệ, cảm xúc và tinh thần.
- Thúc đẩy cá nhân lựa chọn những giá trị cá nhân, xã hội, đạo đức và tinh thần cho chính mình và biết được những phương pháp thực tế để phát triển và đào sâu những giá trị này.
Mục tiêu giáo dục phổ thông và mô hình phát triển nhân cách được thể hiện trong các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước: Điều 27 luật giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam đã khẳng định: Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mô hình phát triển nhân cách toàn diện con người Việt Nam thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa là:“Phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mô hình nhân cách đó phải là một nhân cách phát triển toàn diện. Một nhân cách gắn bó nhịp nhàng, hài hòa giữa 3 mặt: nội tâm thống nhất, lành mạnh, ổn định, tích cực; quan hệ với người khác một cách nhân ái, hữu nghị, hợp tác; quan hệ với công việc và sự nghiệp một cách say mê, nhiệt tình, thích ứng, sáng tạo, hiệu quả và thành đạt”.
Mỗi học sinh khi đã quan tâm đến Giá trị sống đều có khả năng học tập, sáng tạo một cách tích cực mỗi khi có cơ hội học tập. Đặc biệt, nếu mỗi học sinh được lớn lên trong bầu không khí lấy giá trị sống làm nền tảng thì họ sẽ có năng lực học tập và có những lựa chọn mang ý thức xã hội.
2. Phương pháp giáo dục giá trị sống qua giờ đọc văn “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
2.1. Tổ chức cho học sinh phát hiện các giá trị sống thông qua bài học
2.2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm về các giá trị sống thông qua nhiều hoạt động hấp dẫn.
- Trò chơi Bingo, người đưa thư, hãy làm theo tôi...
- Làm việc nhóm, đóng kịch…
- Thuyết trình
...
3. Giáo án thể nghiệm
3.1. Giáo án
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT(Trích) - Lưu Quang Vũ-
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT Giúp học sinh
1. Kiến thức- Cảm nhận được bi kịch của con người khi đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm trái tự nhiên và vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo, dung tục.
- Thấy được những đặc sắc của kịch Lưu Quang Vũ qua đoạn trích cụ thể.
2. Kĩ năng- Tóm tắt tác phẩm;
- Đọc –hiểu kịch bản văn học theo đúng đặc trưng thể loại.
- Rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp.
- Giáo dục học sinh về sự hòa hợp trong đời sống tinh thần và đời sống vật chất.
3. Thái độ:
Sống đúng với bản thân mình, có ý thức giữ gìn phẩm giá trong sạch và nhân cách cao đẹp.
4. Định hướng phát triển năng lực – phẩm chất- Năng lực thu thập thông tin liên quan đến kịch hiện đại của Lưu Quang Vũ
- Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm kịch hiện đại Việt Nam.
- Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kịch văn học.
- Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn trích vở kịch;
- Năng lực phân tích, so sánh quan niệm sống của 2 nhân vật Hồn Trương Ba và Đế Thích trong đoạn trích vở kịch;
- Năng lực tạo lập văn bản nghị luận văn học;
- Năng lực chuyên biệt: đọc kịch, sân khấu hoá..
- Tự lập, tự tin, tự chủ, khoan dung, nhân đạo...
B. CHUẨN BỊ CỦA GV, HS1.
GV- Giáo án
- Phiếu bài tập, trả lời câu hỏi
- Tranh ảnh về nhà văn, hình ảnh, trích đoạn vở kịch do Nhà hát kịch Trung ương dàn dựng.
- Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động trên lớp
- Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh ở nhà
2.
HS- Đọc trước ngữ liệu trong SGK để trả lời câu hỏi tìm hiểu bài
- Các sản phẩm thực hiện nhiệm vụ học tập ở nhà (do giáo viên giao từ tiết trước)
- Đồ dùng học tập
III. Tiến trình bài dạy1. Ổn định lớp
2. Khởi động: Trò chơi ghép tranh
- GV đưa 2 bức ảnh tác giả Lưu Quang Vũ, mỗi bức ảnh được chia làm 8 mảnh ghép
- Gọi 2 đội chơi, mỗi đội 2 học sinh lên bảng ghép tranh trong thời gian 2 phút. Đội nào ghép đúng và nhanh đội đó thắng.
( Tạo hứng thú cho giờ học và giáo dục giá trị sống- tinh thần hợp tác)3. Hình thành kiến thức
HOẠT ĐỘNG CỦA GV, HS | NỘI DUNG CẦN ĐẠT |
Hoạt động 1: Tìm hiểu về tác giả, tác phẩm và đoạn trích - GV gọi 2 HS thuyết trình về tác giả Lưu Quang Vũ và tác phẩm “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” trên cơ sở các câu hỏi gợi ý của GV đã cho từ tiết trước: Câu hỏi 1: Dựa vào phần tiểu dẫn, trình bày những hiểu biết chung nhất của anh/ chị về Lưu Quang Vũ? Câu hỏi 2: Tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết vào giai đoạn nào ? Nó được lấy từ câu chuyện ở đâu? Tác giả có sáng tạo gì? Câu hỏi 3: Tác phẩm tập trung thể hiện vấn đề gì? Câu hỏi 4: Nêu vị trí của đoạn trích? Đoạn trích thể hiện điều gì? - HS thuyết trình - Lớp học nhận xét về phần thuyết trình của 2 bạn và bổ sung - GV nhận xét và chốt ý Hoạt động 2: Đọc- hiểu văn bản ? Theo em đối với thể loại kịch ta đọc như thế nào? Giọng điệu của từng nhân vật trong đoạn trích như thế nào mới phù hợp? ? Tóm tắt tình huống kịch trong đoạn trích này? Việc thể hiện tình huống trong kịch có ý nghĩa như thế nào? Từ đây, anh/chị củng cố được tri thức tiếng Việt nào về hoạt động giao tiếp? Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận các vấn đề theo gợi ý: ? Thống kê lời thoại của hồn và xác? Nhận xét về dung lượng ngôn từ, giọng điệu. Từ đó rút ra kết luận về cuộc đối thoại giữa hồn và xác? ? Sự thay đổi giọng điệu lời thoại của xác có ý nghĩa như thế nào? Ý nghĩa ẩn dụ của cuộc đối thoại giữa hồn và xác? ? Từ việc phân tích trên anh/chị rèn luyện cho anh/chị những kiến thức gì về nhân vật giao tiếp? ? Sau khi nhập vào Xác, Hồn hiện lên như thế nào qua nhìn nhận của người thân? Việc tạo nên nhiều nhân vật người thân như thế có hiệu quả gì? ? Hồn đón nhận hình ảnh ấy với thái độ ra sao? ? Suy nghĩ của anh chị về sự phát triển của xung đột kịch? - Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận qua các gợi ý: ? Tìm lời thoại của Trương Ba chứa đựng sự nhận thức của nhân vật và tư tưởng của tác giả? ? Phân tích lời thoại của Trương Ba để làm rõ tư tưởng của Lưu Quang Vũ? (Giúp HS nhận thức được giá trị sống: sống như thế nào?) - GV tổ chức trò chơi : + GV phát cho mỗi HS một phiếu, yêu cầu HS ghi vào phiếu một thông điệp về cuộc sống. + Sau khi HS ghi xong thông điệp thì gửi thông điệp đó đến bạn của mình. + GV gọi một số HS đọc những thông điệp mà mình được chia sẻ (Thúc đẩy cá nhân lựa chọn những giá trị sống tốt đẹp và lan tỏa những giá trị đó tới mọi người) ? Tại sao khi được nhập vào xác cu Tị ngây thơ trong trắng Hồn Trương Ba lại từ chối? Từ đó nhận xét về nhân vật Trương Ba? ? Có ý kiến cho rằng cái chết của cu Tị có tính chất “mở nút”. Trình bày ý kiến của mình và đánh giá cách dựng, tả nhân vật kịch của Lưu Quang Vũ? ? Trong lời Hồn Trương Ba nói với vợ sau khi đã chết thật, cứ nhắc đi nhắc lại “Tôi vẫn ở đây..” và qua so sánh sự thay đổi trong hai lời thoại của cái Gái, các nhân vật đã nói hộ tư tưởng gì của Lưu Quang Vũ? ? Cảm nghĩ của em về câu nói “Cho nó mọc lên thành cây mới… mãi mãi”? ? Qua việc phân tích trên, anh/chị hãy rút ra chủ đề, những giá trị phê phán, giá trị nhân văn cũng như những đặc sắc nghệ thuật thể hiện trong đoạn trích? ? Từ bài học nhất là những phần đối thoại giữa Trương Ba với anh hàng thịt, với người thân trong gia đình và với Đế Thích, giúp anh/chị củng cố được những tri thức tiếng Việt nào về nhân vật, ngữ cảnh giao tiếp? Hoạt động 3: Tổng kết bài học Giáo viên hướng dẫn học sinh tổng kết vấn đề của bài học. Hoạt động 4: Thực hành : . HS viết vào phiếu học tập: Thông điệp cuộc sống có ý nghĩa nhất đối với anh (chị) mà tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm bài “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”? | I. TIỂU DẪN 1. Tác giả - Lưu Quang Vũ (1948 - 1988), sinh ở Phú Thọ, quê ở Đà Nẵng. - Thuở nhỏ sống ở Phú Thọ, Năm 1954 sống và học tập tại Hà Nội, từng tham gia quân đội vào những năm thời kì kháng chiến chống Mĩ. - Sáng tác thời kì đầu là thơ sau đó chuyển sang lĩnh vực sân khấu, kịch của ông chiếm lĩnh sàn diễn sân khấu rất lớn. - Sáng tác của Lưu Quang Vũ thể hiện chất tươi mát ngọt ngào, hoài niệm đẹp đẽ thắm đượm tình yêu cuộc sống, khát vọng trao gửi và dâng hiến, khát vọng về cái đẹp, cái thiện, về sự hoàn thiện nhân cách con người. - Ông đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. 2. Tác phẩm - Được viết từ 1981 và đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, có tiếng vang lớn trong làng kịch Việt Nam. - Tác phẩm được viết dựa vào câu chuyện dân gian nhưng tác giả đã có nhiều thay đổi về nhân vật chính, để gửi gắm những suy ngẫm về nhân sinh, về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời. - Vở kịch tập trung thể hiện những tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ dày vò của nhân vật Trương Ba. 3. Đoạn trích - Đoạn trích là một phần của cảnh bảy - cảnh cuối cùng của vở kịch. - Đoạn trích là cuộc đối đầu giữa phần hồn và xác trong Nhân vật Hồn Trương Ba, rồi đi đến kết cục cuối cùng. - Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật kịch của Lưu Quang Vũ. II. ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN - Cách đọc: Phân vai, giọng đau khổ bối rối của Hồn Trương Ba; giọng từ tốn, bình dị của vợ Trương Ba; giọng đắc thắng, tự tin của anh hàng thịt; giọng đanh thép cứng cỏi của cái Gái... - Đoạn trích là những mâu thuẫn giữa Hồn Trương ba với xác hàng thịt, với mọi người trong gia đình... 1. Tình huống kịch - Hồn Trương Ba tự cảm thấy không thể sống mãi thế này, muốn thoát khỏi cái xác thô lỗ. - Mọi người trong gia đình xa lánh, cự tuyệt, thương hại và bối rối. - Cuộc đối thoại với Đế Thích và Trương Ba nhận ra hành động cần thiết của mình. => Tính cách nhân vật được thể hiện qua xung đột. Xung đột ngày càng tăng tiến: Hồn >< xác; Trương Ba>< gia đình. 2. Nhân vật Hồn Trương Ba * Cuộc đối thoại giữa hồn và xác - Hai sáu lần đối thoại: Hồn 13, xác 13 + Lời xác dài, hùng hồn + Lời của Hồn ngắn ngủi, yếu ớt, những hành động sợ hãi, trốn chạy (4 và 6) có lời vẫn cứng cỏi (5 và 12). => Xác đắc thắng, hồn sợ hãi bế tắc, lúng túng. Cuối cùng Hồn đã nói lên được tiếng nói của mình dù đầy cam go. - Sự thay đổi giọng điệu 8 lời thoại đầu và 5 lời thoại sau của xác có ý nghĩa quan trọng: Thể hiện sự thay đổi tính cách của xác. 8 lời đầu là ti tiện còn 5 lời sau thể hiện một quan niệm mới mẻ. - Cuộc đối thoại giữa hồn và xác là cuộc đấu tranh giữa các mặt khác nhau trong một con người có ý nghĩa đa chiều: Nội dung và hình thức; con người nhu cầu và con người thiên chức; cái cao cả và cái tầm thường. * Hồn Trương Ba trong việc đối thoại với mọi người trong gia đình. - Hồn Trương Ba qua cảm nhận của người thân: + Thờ ơ với nỗi niềm của người khác + Vụng về, thô lỗ, làm đổ vỡ, làm hư hỏng (cây cối, cánh diều) những điều đẹp đẽ. + Vẻ “tốt lành, hiền hậu” không còn nữa. => Các nhận vật ấy tạo nên cái nhìn đa chiều về nhân vật, thực chất là sự nhận thức về bản thân mình một cách nghiêm khắc mà chí tình nhất. - Hình thức câu ngắn, dở chừng, hành động sân khấu cho thấy lúc đầu Hồn chưa nhận thức được nên còn biện minh về mình nhưng về sau nhận ra sự thật thì càng day dứt, thất vọng về chính mình. - Xung đột kịch được đẩy lên qua: Sự tác động của ngôn ngữ kịch, thái độ của những người khác và sự xung đột ngay chính bản thân Hồn Trương Ba. * Hồn Trương Ba trong cuộc đối thoại với Đế Thích. - Lời thoại: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn” và “Sống nhờ ông chẳng cần biết”. Vấn đề này không phải là sống, mà là sống như thế nào! + Con người là một thể thống nhất, hồn và xác, phải hài hoà đồng thuận nếu bị khuyết cái gì thì cũng là cuộc sống không trọn vẹn, bất bình thường. + Sống thiếu chân thực với mình là cuộc sống vô nghĩa, bất hạnh và cũng không cần thiết cho ai. ... - Sự từ chối là kết quả của những trải nghiệm thấm thía từ một đoạn đời bi hài hồn này xác nọ. - Xin Đế Thích cho cu Tị sống còn mình chết mới là hành động nhất quán của nhân vật - nhất quán với bản chất tự trọng, sáng suốt, nhân hậu và có ý thức cao về ý nghĩa cuộc sống. - Chi tiết cu Tị chết có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chổ “mở nút”. Chi tiết này buộc Hồn Trương Ba phải quyết định nhanh chóng, dứt khoát. Tác giả dựng tả quá trình đi đến quyết định đó một cách hợp lí, tự nhiên và thuyết phục. * Nhân vật Hồn Trương Ba ở đoạn kết Giáo viên khái quát vấn đề: - Sự bất tử của con người nằm trong ý nghĩa sự sống và sự hoá thân vào cuộc sống xung quanh ta chứ không phải ở độ dài thời gian. - Hãy sống trong sự hoá thân vào những điều tốt đẹp mà xa lánh những cái không phải là của chính nhân cách của bản thân mình. * Nhận xét, đánh giá: - Chủ đề: Bi kịch con người đánh mất mình. - Giá trị phê phán: + Những biểu hiện đáng buồn, tiêu cực trong xã hội (sai sót của thiên đình, sửa sai của Thiên Đế) chạy theo ham muốn vật chất đến đánh mất mình. + Phê phán hai quan niệm sống lệch: hoặc quá chú trọng những ham muốn của thân xác hoặc chỉ chú trọng vào đời sống tinh thần. - Nêu lên tình trạng con người sống thiếu chân thực, là nguy cơ bị tha hoá do danh và lợi. Giá trị nhân văn của đoạn trích: - Kêu gọi, đấu tranh cho sự hoàn thiện về vẻ đẹp nhân cách của con người. - Khẳng định cá thể: Con người phải sống như chính mình. - Đặc sắc nghệ thuật: Xây dựng ẩn dụ lớn, phát triển truyện dân gian đầy sáng tạo, nhân vật đa dạng phong phú; xung đột hợp lí và căng thẳng, lời thoại đa nghĩa, có chiều sâu triết lí, có cá tính, chứa kịch tính cao... Bài học: Kịch chính là hoạt động đối thoại và hành động của các nhân vật kịch. Qua các đoạn đối thoại sẽ giúp chúng ta hiểu được cách thức giao tiếp, ngôn ngữ, giọng điệu, cử chỉ của nhân vật giao tiếp. Từ đó rút ra được kinh nghiệm trong hoạt động giao tiếp phù hợp với nhân vật, ngữ cảnh giao tiếp khác nhau. III. TỔNG KẾT 1. Nghệ thuật - Sáng tạo cốt truyện dân gian - Nghệ thuật dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm. - Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, góp phần phát triển tình huống,… 2. Ý nghĩa văn bản Một trong những điều quý giá nhất của mỗi con người là được sống là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình có và theo đuổi. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống trong sự hài hòa tự nhiên giữa thể xác và tâm hồn. Bài tập 1: Cảm nhận về nghệ thuật xây dựng tình huống, xây dựng nhân vật kịch. Bài tập 2: Có ý kiến nhận xét rằng lời thoại kịch của Lưu Quang Vũ rất giàu chất thơ. bình luận và chứng minh. Bài tập nâng cao: Ý nghĩa nhân văn của tác phẩm - Mâu thuẫn giữa linh hồn và xác thịt, giữa đạo đức và tội lỗi. Bi kịch của con người không còn được sống đúng với bản chất tự nhiên của mình. - Từ sự diễn tả và giải quyết mâu thuẫn bi kịch trên, tác phẩm toát lên triết lí sâu sắc: Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Hạnh phúc chân chính của con người là được sống đúng với mình và với mọi người. |
4.
Củng cố - dặn dò- Giáo viên nhấn mạnh trọng tâm bài học.
- Dặn HS về nhà soạn bài bài mới
3.2. Thực nghiệm thăm dò về tính khả thi và hiệu quả của đề tài
“Giáo dục giá trị sống cho học sinh qua bài dạy “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.”3.2.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm nhằm kiểm nghiệm, đánh giá tính khả thi và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.
3.2.2. Đối tượng thực nghiệm
Để thực hiện mục đích của việc thực nghiệm, chúng tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm trên 4 lớp khối lớp 12 của trường THPTNghèn, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ở từng khối lớp, chúng tôi chọn ra hai nhóm thực nghiệm và đối chứng. Các nhóm này cân bằng về số lượng, trình độ chênh lệch không đáng kể, môi trường học tập như nhau:
- Nhóm thực nghiệm: Lớp 12A4 (41 HS), lớp 12A5 (40 HS).
- Nhóm đối chứng: Lớp 12A6 (42HS), lớp 12A11 (43HS).
3.2.3. Nội dung thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành dạy học văn bản đọc - hiểu “
Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ ở 4 lớp.
3.2.4. Phương pháp thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm đề tài trên những bước sau:
Thứ nhất, chúng tôi tiến hành kiểm tra trình độ ban đầu của HS lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.
Thứ hai, giáo viên chuẩn bị đầy đủ các phương tiện dạy học, thiết kế giáo án, tài liệu tham khảo có việc giáo dục giá trị sống cho học sinh qua bài dạy
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ ở các lớp thực nghiệm; dạy học văn bản đọc - hiểu
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ không giáo dục giá trị sống cho học sinh qua bài dạy ở các lớp đối chứng.
Thứ ba, chúng tôi tiến hành dạy học thực nghiệm và dạy học đối chứng ở các lớp đã chọn.
Thứ tư, chúng tôi tiến hành thu kết quả sau khi hoàn thành bài dạy bằng hình thức kiểm tra tự luận trực tiếp khoảng 10 phút cuối các bài dạy
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” với câu hỏi cụ thể như sau: Thông điệp cuộc sống có ý nghĩa nhất đối với anh (chị) mà tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm bài
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt”?3.2.5. Kết quả thực nghiệm
Kết quả đánh giá dựa trên các chỉ tiêu sau:
- Dựa vào bài viết của học sinh
- Dựa vào mức độ hứng thú, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học.
Phương tiện đánh giá kết quả: Giáo án thể nghiệm; hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn 12; kết quả học tập của học sinh.
Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm và quan sát quá trình học của học sinh ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng, chúng tôi thu nhận thấy như sau: trong quá trình tiến hành dạy đọc - hiểu văn bản ở lớp thực nghiệm, nếu giáo viên giáo dục giá trị sống thì hiệu quả đánh giá qua kiểm tra cao hơn, mức độ hứng thú, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh cũng cao hơn so với lớp đối đối chứng không vận dụng giáo dục giá trị sống trong dạy học đọc - hiểu. Như vậy, từ kết quả thực nghiệm trong thực tiễn dạy học, chúng tôi có thể khẳng định được vai trò cũng như tác dụng việc giáo dục giá trị sống trong dạy học ngữ văn ở THPT.
III. KẾT LUẬN
Triển khai đề tài, bước đầu chúng tôi rút ra một số kết luận sau đây.
1. Giáo dục không chỉ dừng lại ở việc dạy học mà còn là khơi gợi những giá trị tốt đẹp vốn sẵn có ở mỗi con người. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, những giá trị sống tốt đẹp này có lúc đã bị che lấp khiến chúng ta xa rời với những điều quý giá, quan trọng và có ý nghĩa với chúng ta.
2. Giáo dục giá trị sống cần đến quá trình lâu dài và thực hành liên tục, trên cơ sở dựa vào đặc điểm riêng của mỗi cá nhân HS. Trong đó, cách giáo dục hiệu quả nhất cần mang tính trải nghiệm, kết hợp càng nhiều loại hình trí thông minh càng tốt và nhất là tập trung vào tiềm năng tích cực của học sinh.
3.Trong dạy học Ngữ văn, không nhất thiết bài học nào, tiết học nào giáo viên cũng giáo dục giá trị sống cho học sinh. Trong thực tiễn dạy học, tùy thuộc vào các văn bản, đối tượng học sinh, giáo viên có thể lựa chọn bài học phù hợp để giáo dục giá trị sống cho học sinh. Để đạt được hiệu quả tốt còn tùy vào năng lực sư phạm, bản lĩnh đứng lớp của mỗi giáo viên. Đây là điều tôi ý thức được và đã mạnh dạn thể nghiệm trong giáo án
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” . Dĩ nhiên,
“từ bản thiết kế” đến thực tiễn dạy học vần còn những khoảng cách nhất định.
Tải về
Từ site Trường THPT Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh:
( Dung lượng: 102.00 KB )