Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Mà lòng phơi phới dậy tương lai. (
Theo chân Bác – Tố Hữu)
Đã có những năm tháng hào hùng trong lịch sử dân tộc như vậy. Bao chàng trai, cô gái tuổi đôi mươi đã sẵn sàng lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Và văn học với sứ mệnh thiêng liêng của mình đã đồng hành cùng lịch sử để chúng ta luôn có những vần thơ đi cùng năm tháng.

Thơ Việt Nam nói chung và thơ ca kháng chiến 1945-1975 nói triêng đã phản ánh sự bùng nổ toàn diện sức mạnh tiềm tàng của dân tộc trước vận hội của lịch sử được tích tụ qua nhiều thế hệ. Và không thể không nhắc đến tinh thần cách mạng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc, mà ở đó hình tượng người lính đã tạc vào trái tim bao thế hệ con người hôm nay và cả mai sau với những gì đẹp đẽ nhất, ấn tượng nhất của thời đại. Hình tượng người lính mang trong mình lý tưởng cách mạng chói ngời, những con người được gọi bằng những cái tên trìu mến: anh giải phóng quân, Bộ đội cụ Hồ…
Đến với thơ ca thời chống Pháp ta bắt gặp những người lính thật giản dị, thật gần gũi. Họ là con đẻ của nhân dân lao động nghèo khổ, họ ra đi từ những miền quê nghèo khắp mọi miền đất nước như cách nói của Chính Hữu trong bài thơ
Đồng chí. Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá. (
Đồng chí – Chính Hữu)
Từ những con người vốn xa lạ, khi vào bộ đội các anh đã gắn bó với nhau trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng:
Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ. Xuất thân từ những người dân lao động anh bộ đội cụ Hồ rất giàu nghị lực. Các anh dẻo dai bền bỉ hành quân vượt qua “ trăm suối ngàn khe”, trong cảnh “ngày nắng đốt chói chang, những đêm mưa dầm dề, gió buốt chân tay” quanh năm suốt tháng. Vậy nhưng không một khó khăn trở lực nào ngăn được bước tiến của anh:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá nguỵ trang reo với gió đèo. (
Lên Tây Bắc- Tố Hữu)
Nói đến người chiến sĩ là nói đến lòng kiên cường, dũng cảm tuyệt vời. Ngay buổi đầu cuộc kháng chiến ấy, các anh phải chịu đựng bao khó khăn. Thiếu từ những trang bị tối thiểu “áo anh rách vai”, “ quần tôi vài mảnh vá”, “chân không giày”, thêm vào đó thiếu thuốc men, bệnh sốt rét rừng hành hạ. Không thể tính được những hi sinh mất mát mà các anh phải trải qua và chịu đựng:
Khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn Gan không núng
Chí không mòn!” (
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)
Khó khăn chồng chất vẫn không làm mất đi dáng vẻ oai hùng, tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của người lính đất Hà thành:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (
Tây Tiến – Quang Dũng)
Và chính các anh đã làm nên những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc:
Chín năm làm một Điện Biên Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng Pháp thua, Mĩ lại nhảy vào miền Nam, các anh lại phải cầm súng đánh Mỹ. Họ đã có những cuộc chia ly, nhưng là cuộc chia ly màu đỏ như bài thơ của Nguyễn Mỹ :
Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét...
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly...:Người chiến sĩ trong thời đại chống Mỹ vẫn mang vẻ đẹp của thế hệ chống Pháp nhưng có tầm vóc cao đẹp hơn. Vẫn là anh- con người hết sức bình dị mà rất đỗi kiên cường :
Vẫn đôi dép lội chiến trường Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy . Các anh vẫn lạc quan, yêu đời, luôn cười ngạo nghễ trước gian khổ, hiểm nguy như những chàng lính lái xe trong
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật :
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim. Vâng!
Chỉ cần trong xe có một trái tim. Bức chân dung của những người chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước đã được hoàn thiện hơn nữa thông qua hình ảnh “trái tim”. Tác giả đã sử dụng biện pháp hoán dụ để làm nổi bật những trái tim cầm lái của những con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắcvào tương lai.
Người lính – Anh xứng đáng là con người đẹp nhất là niềm tự hào của dân tộc, là chàng trai của thế kỷ hai mươi như lời thơ Tố Hữu đã viết:
Hoan hô anh giải phóng quân Kính chào anh con người đẹp nhất. Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất. Sống hiên ngang bất khuất trên đời. Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi (
Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)
Các anh lại viết nên huyền thoại mới của thời đại, được cả
năm châu, chân lí nhìn theo, cái nhìn trìu mến và khâm phục:
Tổ quốc cho anh dòng sữa tự hào Thời đại cho anh ánh sao trí tuệ. Đọc những trang thơ kháng chiến 1945-1975, chúng ta hiểu thêm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của con người sống trong chiến tranh ác liệt. Đồng thời ta thấy được bản chất anh hùng cách mạng của người lính. Thơ kháng chiến là tiếng đại bác gầm rung và cũng là tiếng chim ca hát bình minh. Chất trữ tình và chất anh hùng ca hòa quyện trong hồn thơ, bài thơ, câu thơ và ý thơ. Thơ trong giai đoạn này đã phát hiện tư thế của người lính đối diện với lịch sử, với chân trời tự nhiên đầy gian nan. Các anh là linh hồn của 2 cuộc kháng chiến trường kì. Ở các anh có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách cho những con người anh hùng dân tộc.
Chiến tranh đã qua đi, nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, và đất nước Việt Nam mãi là :
Đất nước của nhân dân Đất nước của Nhân dân, của ca dao thần thoại. (
Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm).
Ý kiến bạn đọc