- Cơ sở quan hệ Việt Nam - Lào
- Lịch sử quan hệ Việt Nam - Lào
- Ý nghĩa mối quan hệ Việt Nam - Lào.
KỶ NIỆM 55 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – LÀO, LÀO – VIỆT NAM.
( 5/9/1962 - 5/9/2017)
Trong lịch sử hình thành và phát triển của các quốc gia trên thế giới có rất nhiều các mối quan hệ liên minh (liên minh để tự vệ, liên minh để cùng nhau phát triển…) nhất là trong bối cảnh thế giới ngày nay các mối quan hệ như thế lại ngày càng nảy sinh và phát triển không ngừng nhằm hướng tới những mục đích chung, đồng thời cùng nhau giải quyết nhưng vấn đề mang tính quốc tế.
Trong muôn vàn các mối quan hệ như vậy, hiếm có mối quan hệ nào vừa tự nhiên vừa khăng khít mặn nồng tình cảm vừa có bề dày lịch sử như mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Lào. Phát huy truyền thống tốt đẹp giữa hai dân tộc, Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào luôn quan tâm, vun đắp cho tình cảm hữu nghị tốt đẹp phát triển lên tầm cao mới, cùng giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn thử thách trong quá trình phát triển đất nước.
Kỉ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Lào, mỗi chúng ta cùng tôn vinh tình hữu nghị truyền thống tốt đẹp giữa hai dân tộc, tiếp tục duy trì thúc đẩy mối quan hệ Việt Nam – Lào phát triển đời đời bền vững mãi mãi xanh tươi.
Cơ sở hình thành quan hệ Việt - LàoTừ bao đời nay, Việt Nam và Lào là hai nước láng giềng, gần gũi bên nhau. Quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là mối quan hệ nhân hòa, nảy sinh từ đời sống tự nhiên, nhân dân hai nước có nhiều lợi ích tương đồng, trên hết là vận mệnh hai dân tộc gắn bó và quan hệ mật thiết qua lại với nhau rất khăng khít và được nâng thành quan hệ đặc biệt chưa từng có trong lịch sử hai nước cũng như trong quan hệ quốc tế.
Quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào hình thành nên một cách tự nhiên bắt nguồn từ vị trí địa lí cùng nương tựa lẫn nhau của hai dân tộc có cùng lợi ích cơ bản về độc lập, tự do.
Việt Nam và Lào liền cùng một mảnh đất duyên hải ven biển Đông, nơi có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng cả về đường biển và đường bộ, có nguồn tài nguyên phong phú, khí hậu mát lành rất thuận lợi cho việc sinh sống và phát triển của cư dân hai nước. Dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào là bức tường thành kiên cố, là nơi hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình phát triển cũng như đấu tranh chống lại kẻ thù.
Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc, do trong quá trình sinh sống và phát triển cư dân hai nước có sự phân bố đan xen nhau, nên đã nảy sinh nhiều điểm tương đồng về văn hóa. Nhiều câu truyện cổ tích thần thoại đã cho thấy điều đó. Huyền thoại khởi nguyên về quả bầu mẹ đã trở thành biểu tượng cao đẹp về nguồn gốc chung và tình đoàn kết giữa hai dân tộc hai bên dãy Trường Sơn. Đó là niềm tự hào mà cư dân hai nước từ muôn đời nay vẫn truyền lại cho con cháu của mình. Sự hài hòa cũng như nhiều điểm tương đồng giữa hai nền văn hóa là nhân tố làm cho tình đoàn kết hữu nghị của hai dân tộc thêm gắn bó khăng khít không thể tách rời. Những nét tương đồng đó ta có thể dễ dàng thấy phổ biến trong muôn mặt đời sống của cư dân hai nước, vì vậy mà cả hai bên đều có thể tìm thấy sự đồng cảm chia sẻ lẫn nhau về các giá trị văn hóa cũng như tâm hồn và các giá trị cộng đồng. Đặc biệt, sự tương đồng giữa văn hóa
làng – nước của người Việt và văn hóa
bản – mương của người Lào và có chung nền văn minh lúa nước cũng như tôn giáo đạo phật vì vậy đã hình thành nên tính cách cần cù chịu khó, nhân hậu, yêu thương đùm bọc lẫn nhau và hướng tới cái thiện, bài trừ cái ác.
Bên cạnh những nét tương đồng, Việt Nam và Lào cũng có nhiều điểm khác biệt, nhất định về văn hóa và điều kiện tự nhiên cũng như phát triển kinh tế. Đó là điều kiện để hai nước có thể bổ sung cho nhau những thế mạnh riêng có của mình để cùng nhau phát triển, đặc biệt là trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc hiện nay.
Mặt khác trong lịch sử, từ thời phong kiến mối bang giao giữa các triều đại luôn thân thiện không hề có sự nô dịch hiềm khích và thù hằn lẫn nhau mà luôn là bạn, che chở và giúp đỡ cho nhau. Đến cuối thế kỉ thứ 19, thực dân Pháp đặt chân lên đất Đông Dương đặt ách nô dịch lên ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia với âm mưu biến Đông Dương thành thuộc địa của chúng nhằm vơ vét tài nguyên và xóa bỏ dần nền văn minh mà các dân tộc ở đây đã dày công vun đắp và xây dựng hòng đồng hóa với nền văn hóa phương Tây. Chúng thực hiện và áp đặt nhiều âm mưu vô cùng thâm độc, áp đặt âm mưu “chia để trị” trong nội bộ mỗi nước cũng như giữ ba dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia, xuyên tạc phá hoại tình đoàn kết truyền thống giữa các nước… Tất cả nhằm chia rẽ đoàn kết giữa các dân tộc để dễ bề hành động và đạt được âm mưu của mình. Không chịu khuất phục kẻ thù, không chịu cảnh nô lệ, nhân dân hai nước đã cùng nhau đứng lên đấu tranh mạnh mẽ bền bỉ. Do có chung kẻ thù và một hoàn cảnh bị nô dịch, nhân dân các dân tộc ở Đông Dương đã phát huy truyền thống đoàn kết, phối hợp với nhau đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước đã bùng lên mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của các nhà yêu nước của ba dân tộc. Tuy các cuôc khởi nghĩa đó hầu hết bị thất bại, bị giặc Pháp dìm trong bể máu nhưng qua đó đã thắt chặt thêm tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt – Lào.
Tất cả những yếu tố trên đã góp phần làm nên và củng cố mối tình hữu nghị đặc biệt Việt – Lào thủy chung son sắc vững bền như ngày hôm nay. Đó là kết quả của biết bao thế hệ nhân dân hai nước đã dày công vun đắp và xây dựng nên, đó là một di sản vô cùng quý giá mà chúng ta cần gìn giữ và phát huy trong mọi hoàn cảnh và mọi điều kiện. Đây là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất tự hào của Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước phải không ngừng trong hện tại cũng như tương lai.
Nhìn lại lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của hai dân tộc đã chứng kiến những sự kiện, việc làm cụ thể thể hiện rõ mối tình hữu nghị đoàn kết đẹp đẽ vô cùng trong sáng đậm truyền thống của hai nước Việt – Lào. Tình đoàn kết giữa hai nước là vũ khí đặc biệt, hữu hiệu đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, đẩy lùi đói nghèo. Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng đưa cả hai dân tộc cùng nhau đi tới thành công trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan hệ truyền thống hữu nghị Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam được nâng thành quan hệ đặc biệt và đánh dấu mốc quan trọng. Kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930 và sau đó, Đảng được đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 10 năm 1930 tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào sau này. Cuối những năm 20 thế kỷ XX, sau một quá trình lâu dài truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng giải phóng dân tộc của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đồng thời với sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, như vậy những điều kiện khách quan và chủ quan cho việc thành lập Đảng của giai cấp công nhân ở Đông Dương, trước hết là ở Việt Nam, đã hội tụ. Sau một quá trình chuẩn bị kĩ lưỡng, ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức được thành lập. Tại hội nghị thành lập Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì, chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và điều lệ của Đảng đã được thông qua.
Dựa trên sự tương đồng về hoàn cảnh lịch sử, kẻ thù và mục tiêu chính trị, nên tư tưởng tiến bộ mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra và được hội nghị thông qua đồng thời cũng là con đường đấu tranh đúng đắn cho dân tộc Lào tiến tới giải phóng dân tộc dành lại độc lập tự do cho nhân dân Lào.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt quan trọng, mở ra một trang vàng trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, đồng thời thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân Lào có một bước phát triển mới và tiếp cận với khuynh hướng cách mạng vô sản. Tiếp đó, tháng 10 năm 1930, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam quyết nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; thảo luận và thông qua
Luận cương chánh trị của Đảng, đồng thời đề ra những nhiệm vụ cụ thể trước mắt của cách mạng và thông qua một số văn kiện quan trọng khác.Với những văn kiện trên, nhất là Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghị đã xác lập các nguyên tắc, phương hướng, đường lối chính trị và những nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của ba dân tộc ở Đông Dương. Hội nghị đã đặt phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương cũng như xác định cụ thể, toàn diện hơn về mặt lý luận cho mối quan hệ giữa phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng Lào.
Từ khi có Đảng, phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam không ngừng phát triển, đặc biệt là cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết – Nghệ Tĩnh. Điều đó không chỉ gây tiếng vang lớn trong nước mà còn tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của nhân dân Lào .
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng Lào, Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) chính thức được thành lập vào tháng 9 năm 1934. Đó là một dấu mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của phong trào cách mạng Lào, cũng như trong mối quan hệ với phong trào cách mạng của nhân dân Việt Nam. Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương diễn ra. Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc liên hợp mật thiết các dân tộc Đông Dương để chống kẻ thù chung trên cơ sở lấy nguyên tắc chân thật, tự do và bình đẳng cách mạng làm căn bản. Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ nhất đánh dấu sự khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng trong xứ, thúc đẩy nhân dân hai nước Việt Nam – Lào đoàn kết đấu tranh chống chế độ thuộc địa. Sau Đại hội Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào mang một sức sống mới và ngày càng gắn bó. Vượt qua mọi sự khủng bố vô cùng tàn ác của kẻ thù, phong trào cách mạng cũng như nhân dân hai nước Việt Nam – Lào vẫn luôn sát cánh bên nhau, giúp đỡ nhau vượt qua nhũng khó khăn thử thách.
Trong những năm 1930 – 1939, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào cách mạng của hai nước Việt Nam và Lào đã không ngừng phát triển, tác động sâu sắc lẫn nhau, nhân dân hai nước luôn đoàn kết bên nhau chống kẻ thù chung. Điều đó là điều kiện cho việc phát triển và củng cố tình đoàn kết giữa nhân dân và cách mạng hai nước.
Bước sang những năm cuối của thập kỉ 30 tình hình thế giới có nhiều thay đổi tác động đến tình hình khu vực. Tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ mà Pháp là một trong những nước tham chiến. Để phục vụ cho cuộc chiến, chúng tăng cường đàn áp phong trào cách mạng và ra sức vơ vét ở các nước thuộc địa, mà Đông Dương là một trọng điểm.
Trước sự tồn vong của vận mệnh các dân tộc Đông Dương, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ đạo đúng đắn và phù hợp cách mạng chống lại sự đàn áp của thực dân Pháp, trong đó đặc biệt phải kể đến hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5 – 1941 diễn ra ở tỉnh Cao Bằng (Việt Nam) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã quyết định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng trước tiên của cách mạng Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước và thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng nước. Những chủ trương đúng đắn trên đây của Đảng Cộng sản Đông Dương đã dẫn đường cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào phát huy mạnh mẽ tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh của mỗi dân tộc, đồng thời tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân hai nước đánh đuổi kẻ thù.
Trong khi phong trào đấu tranh của nhân dân hai dân tộc Việt Nam và Lào đang phát triển mạnh mẽ thì ngày 9/3/1945, phát xít Nhật tiến hành cuộc đảo chính lật Pháp hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp và sau đó ban hành Chỉ thị “
Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chủ trương phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển rất mạnh mẽ ở Việt Nam đã tác động và hỗ trợ tích cực, mạnh mẽ các lực lượng yêu nước Lào đấu tranh giành độc lập.
Tại Lào, tinh thần cách mạng của nhân dân phát triển không ngừng ở nhiều nơi tạo ra một khí thế cách mạng vô cùng mạnh mẽ, nhiều tổ chức chính trị khác nhau hình thành. Tháng 4 năm 1945, tại Thái Lan, nhóm người Lào đang hoạt động tại đây thành lập tổ chức “Lào Ítxalạ” . Tổ chức này tập hợp các công chức, học sinh có tinh thần yêu nước, chủ trương dựa vào phe Đồng Minh chống Nhật để giành độc lập, các tổ chức yêu nước đã liên kết với nhau và phối hợp hoạt động.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Lực lượng quân đội phát xít Nhật ở Đông Dương mất tinh thần, hoang mang, rệu rã, các chính quyền tay sai của Nhật ở Việt Nam và ở Lào hoàn toàn bị tê liệt tạo cơ hội ngàn năm có một cho nhân dân Đông Dương vùng lên giành độc lập.
Trong thời điểm lịch sử đó, Hội nghị của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 14 đến 15 tháng 8 năm 1945 tại tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam) phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ở Việt Nam, cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra sôi động và kết thúc thắng lợi hoàn toàn trên cả nước trong vòng 15 ngày. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
Tuyên ngôn độc lập trịnh trọng tuyên bố với nhân dân cả nước và thế giới khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã đập tan bộ máy thống trị đầu não của phát xít Nhật và thực dân Pháp ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi và cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Lào.
Vượt một số khó khăn trước mắt, rất nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra tạo nên khí thế cách mạng rất sôi động và khẩn trương. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, một cuộc mít tinh lớn diễn ra tại khu vực chợ Mới có đông đảo nhân dân Lào và Việt kiều tham gia. Ông Khăm Mạo thay mặt Chính phủ Vương quốc và Uỷ ban Lao pên Lao Viêng Chăn tuyên bố Việt kiều được quyền tổ chức các đội tự vệ; kêu gọi Việt kiều đoàn kết với nhân dân Lào, giúp đỡ Chính phủ Lào, cùng nhau chống Pháp, giành độc lập dân tộc cho hai nước. Cuộc mít tinh đã tăng cường lòng tin và tình đoàn kết Lào – Việt Nam, làm cho các lực lượng Việt kiều và lực lượng Lào yêu nước càng gắn bó.
Cuộc mít tinh ngày 23 tháng 8 năm 1945 đánh dấu cuộc khởi nghĩa Viêng Chăn giành được thắng lợi. Đó là do có sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời và khôn khéo của Xứ uỷ Ai Lao mà trực tiếp là Ban Chỉ đạo khởi nghĩa đã phát huy được sức mạnh đoàn kết của các lực lượng yêu nước Lào – Việt, đặc biệt là đông đảo Việt kiều ở Viêng Chăn; tranh thủ được sự ủng hộ của chính giới Lào, kể cả những người trong chính quyền Vương quốc. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Viêng Chăn đã thúc đẩy và tạo điều kiện cho các địa phương khác trên đất Lào đứng lên khởi nghĩa thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam và khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Lào diễn ra gần như đồng thời đó là minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thời, sáng tạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, thể hiện rõ tính hiệu quả của tình đoàn kết đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, mở ra kỷ nguyên mới về quan hệ đặc biệt Lào – Việt Nam, Lào – Việt Nam cùng đoàn kết giúp đỡ nhau vì những mục tiêu chung của cả hai dân tộc.
Sáng ngày 12 tháng 10 năm 1945, trong cuộc mít tinh lớn tại sân vận động thành phố Viêng Chăn, Chính phủ Lào Ítxalạ vừa được thành lập đã làm lễ ra mắt và trịnh trọng tuyên bố trước toàn thể nhân dân nền độc lập của quốc gia Lào, mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử đất nước Lào.
Phải nói trong những năm 1930 – 1945 là thời kì hai nước Việt Nam và Lào đã cùng nhau vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương cùng nhau đoàn kết đánh đuổi kẻ thù. Điều đó một lần nữa khẳng định và thắt chặt thêm tình đoàn kết Việt – Lào. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 2 tháng 9 năm 1945) và Chính phủ Lào Ítxalạ (ngày 12 tháng 10 năm 1945) cùng những mong muốn của hai bên về xây dựng mối quan hệ hoàn hảo và vững chãi hơn trước là một trong những cơ sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu.
Sau khi giành lại được chính quyền thành công ở hai nước, Việt Nam và Lào tiếp tục hợp với nhau trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Chính phủ hai nước đã kí hiệp ước tương trợ Lào – Việt và hiệp định về tổ chức liên quân Lào – Việt, đặt cơ sở cho liên minh Việt – Lào trong phát triển xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Tuy vậy, đi ngược lại mong muốn của hai nước, thực dân Pháp một lần nữa thể hiện rõ âm mưu biến Đông Dương thành thuộc địa của chúng.
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp được sự đồng lõa của quân Anh, nổ súng đánh chiếm thành phố Sài Gòn. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ của Việt Nam, sang Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương.
Trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia, ngày 25/11/1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị
Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc của ba nước Đông Dương. Bằng mọi sự nỗ lực, các lực lượng vũ trang Việt – Lào đã từng bước tạo dựng được niềm tin trong nhân dân, xây dựng thêm nhiều cơ sở kháng chiến và mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp các nơi ở Việt Nam và Lào.
Quán triệt tinh thần Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương mở rộng (1 – 1948) về những chủ trương mới và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đối với cách mạng Lào, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội quốc gia và dân quân Việt Nam quyết định tăng cường lực lượng sang phối hợp và giúp đỡ nhân dân Lào đẩy mạnh kháng chiến. Thực nhiện nhiệm vụ quốc tế vẻ vang, các lực lượng Việt Nam tham gia chiến đấu tại Lào đã hoàn thành suất sắc nhiệm vụ, lập được nhiều chiến công vang dội góp phần tạo ra bước phát triển mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân hai nước và để lại những ấn tượng tốt đẹp về tình đoàn kết Việt – Lào. Như vậy, trong những năm 1945 – 1948, liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào từng bước được hình thành, phát triển và thu được nhiều kết quả, góp phần thúc đẩy quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt Nam – Lào gắn bó mật thiết hơn.
Thực hiện quyền dân tộc tự quyết đi đôi với đẩy mạnh đoàn kết, liên minh trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Lào, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, củng cố, nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ máy lãnh đạo kháng chiến Lào, cán bộ, chiến sĩ Việt Nam công tác ở Lào phải phục tùng Chính phủ Lào, phải tôn trọng và đoàn kết với cán bộ Lào. Trong các hoạt động phối hợp chung, phải có sự thống nhất của lãnh đạo cả hai bên Việt Nam và Lào. Trên cơ sở đó ngày 30 tháng 10 năm 1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định các lực lượng quân sự của Việt Nam được cử làm nhiệm vụ quốc tế tại Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là
Quân tình nguyện. Quan hệ chiến đấu giữa Quân đội Việt Nam và Quân đội Lào Ítxalạ được quy định rõ theo nguyên tắc: Chỉ huy và tác chiến thì Việt Nam làm chỉ huy trưởng. Vũ trang tuyên truyền thì làm chung, phối hợp chỉ huy.
Quân tình nguyện Việt Nam là biểu tượng tuyệt đẹp của tình đoàn kết Việt – Lào trong những năm tháng kháng chiến ác liệt đã đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự Việt Nam chiến đấu trên chiến trường Lào; đồng thời tạo cơ sở quan trọng để tăng cường quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa quân đội hai nước Việt Nam và Lào trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Sự phối hợp, giúp đỡ, liên minh đoàn kết chiến đấu giữa Việt – Lào trong những năm 1945 – 1950, đã góp phần đưa lại những thắng lợi căn bản cho sự nghiệp cách mạng của hai nước, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của mối quan hệ liên minh, đoàn kết chiến đấu Việt Nam – Lào trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Bước sang năm 1951, cục diện chiến tranh biến chuyển ngày càng có lợi cho cách mạng Việt Nam, Lào và Campuchia, đó là bước đà tạo điều kiện cho quan hệ giữa Việt Nam, Lào, Campuchia phát triển lên tầm cao mới. Trước tình hình đó, từ ngày 11 đến ngày 19/2/1951 Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp từ tại xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (Việt Nam). Đồng chí Cay Xỏn Phômvihản, Trưởng đoàn đại biểu Lào tham gia Đoàn Chủ tịch đại hội.Đại hội bàn về quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa cách mạng ba nước Đông Dương,
Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày trước Đại hội nhấn mạnh: Việt Nam kháng chiến, Lào, Campuchia cũng kháng chiến; thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù chung của cả ba dân tộc Việt Nam, Lào và Campuchia. Do đó, Việt Nam phải ra sức giúp đỡ Lào, Campuchia kháng chiến và đi đến thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt Nam – Lào – Campuchia, đồng thời Đại hội đã thông qua Nghị quyết về đường lối, nhiệm vụ chung và đề ra chủ trương xây dựng ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia, một đảng cách mạng, có cương lĩnh riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể để lãnh đạo cuộc kháng chiến ở từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng Lao động Việt Nam có nghĩa vụ phối hợp và giúp đỡ các tổ chức cách mạng Lào, Campuchia xây dựng chính đảng mácxít để lãnh đạo cuộc kháng chiến của hai nước giành lấy thắng lợi cuối cùng.
Đại hội 2 kết thúc thành công đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Với việc xác định rõ thêm vị trí, vai trò của cách mạng mỗi nước và đề ra phương hướng, biện pháp mở ra chặng đường phát triển mới của quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.
Đặc biệt ngày 11/3/1951, Hội nghị liên minh nhân dân ba nước Đông Dương khai mạc tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Các đại biểu tham gia Đại hội đã thống nhất thành lập khối liên minh nhân dân Việt Nam – Lào – Campuchia theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng nhau đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập thực sự cho nhân dân. Hội nghị đề ra chương trình hành động chung và cử Ủy ban liên minh gồm đại diện của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Đây là bước phát triển mới của quan hệ Việt Nam – Lào – Campuchia là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, tạo cơ sở nâng cao quan hệ đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương.
Thất bại lien tục trên chiến trường, thực dân Pháp điên cuồng khủng bố nhằm trấn áp và giảm bớt không khí cách mạng của nhân dân ba nước Đông Dương. Điều đó đã gây nhiều khó khăn cho cách mang ba nước Đông Dương.
Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi nhiệm vụ giúp cách mạng Lào như mình tự giúp mình để cùng phối hợp chiến đấu, đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập. Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã cử nhiều người con yêu dấu của mình sang phối hợp cùng bạn. Trong năm 1951, đã có hơn 12.000 cán bộ, chiến sĩ Việt Nam tình nguyện sang hoạt động ở chiến trường Lào.
Với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình” các lực lượng tình nguyện Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn hoàn thành suất sắc nhiệm vụ, sát cánh bên quân và dân Lào chiến đấu lập được nhiều chiến công quan trọng góp phần làm thay đổi tình hình và cục diện chiến tranh.
Hội nghị cán bộ Mặt trận liên minh nhân dân Đông Dương tháng 9 – 1952 đã góp phần thắt chặt và thúc đẩy tình đoàn kết hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia lên bước phát triển mới, trở thành nhân tố quan trọng đưa cuộc kháng chiến của ba dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.
Với sự đoàn kết cộng với sự quyết tâm đánh giặc giải phóng đất nước, ba nước Đông Dương đã dành được nhiều thắng lợi trên nhiều mặt quân sự, ngoại giao, văn hóa, kinh tế... vùng giải phóng không ngừng được mở rộng, vùng hậu phương tiếp tục phát triển tạo điều kiện cho cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung của ba dân tộc Việt Nam – Lào – Campuchia gặp nhiều thuận lợi và phát triển lên tầm cao mới. Tháng 4 năm 1953, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Kháng chiến Lào quyết định mở chiến dịch Thượng Lào. Quân đội Việt Nam (gồm 10 trung đoàn chủ lực và các đoàn quân tình nguyện đang hoạt động ở Thượng Lào) phối hợp với quân đội Lào Ítxalạ (gồm 5 đại đội và hàng nghìn dân quân du kích) với sự hiệp đồng tác chiến ăn ý giữa các lực lượng và tinh thần quyết tâm đánh giặc, liên quân Việt – Lào đã dành được thắng lợi nhanh chóng trong chiến dịch này. Với thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào, hậu phương kháng chiến của Lào đã nối thông với vùng tự do của Việt Nam, tạo thế phối hợp chiến lược giữa Việt Nam và Lào, góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương tiến lên một bước mới.
Bước vào Đông Xuân 1953 – 1954, quân và dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia tiếp tục đẩy mạnh tiến công trên khắp các chiến trường và liên tiếp dành được nhiều thắng lợi quan trọng làm cục diện trên chiến trường thay đổi mau lẹ theo hướng có lợi cho ta. Trên cơ sở và đánh giá tình hình thực tiễn trên chiến trường, cuối năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhằm giải phóng hoàn toàn vùng Tây Bắc Việt Nam, tạo điều kiện cho quân và dân Lào giải phóng vùng cực Bắc Lào. Do địch ngày càng tăng cường lực lượng phòng thủ Điện Biên Phủ, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định thay đổi phương châm, từ “
đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “
đánh chắc, tiến chắc”.Ngày 13/3/1954, quân và dân Việt Nam mở đầu cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Phối hợp với chiến trường chính Việt Nam, quân và dân Lào liên tục đẩy mạnh các hoạt động quân sự từ Bắc xuống Nam Lào để kiềm chế lực lượng địch. Trải qua 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ, quyết liệt và anh dũng, ngày 7/5/1954 tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Chiến công đó đã đánh bại cố gắng chiến tranh cao nhất của thực dân Pháp được Mỹ viện trợ, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của bọn thực dân, đế quốc, góp phần thúc đẩy quá trình tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Đó là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và cũng là thắng lợi của khối đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, mà Việt Nam làm trụ cột trong sự nghiệp kháng chiến chống kẻ thù chung. Từ đây, cục diện chiến tranh Đông Dương chuyển sang thế có lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia tại Hội nghị Giơnevơ.
Tiếp đó ngày 8/5/1954 hội nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương đã diễn ra. Hội nghị đánh dấu sự thắng lợi của cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia chống thực dân Pháp dành lại độc lập cho dân tộc.
Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơnevơ là một thắng lợi quan trọng của sự nghiệp đoàn kết kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương nói chung, của hai nước Việt Nam, Lào nói riêng trong cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Thắng lợi đó thể hiện nghị lực, quyết tâm của Việt Nam và Lào trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, kết tinh sức mạnh đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu giữa nhân dân và quân đội hai nước, tạo nền móng vững chắc cho sự phối hợp, liên minh chiến đấu giữa Việt Nam và Lào ngày càng nâng cao trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 – 1975).
Sau Hiệp định Giơnevơ 1954, cách mạng hai nước Việt Nam, Lào tiếp tục phải đối mặt với thử thách mới đó là sự can thiệp của đế quốc Mĩ. Vì vậy, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào tiếp tục phối hợp đấu tranh để bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được. Các lực lượng vũ trang dưới sự chỉ đạo của Đảng và nhà nước hai bên đã cùng nhau phối hợp chặt chẽ với nhau chống âm mưu của đế quốc Mĩ. Việt Nam đã lập đoàn cố vấn quân sự cấp cao sang giúp đỡ nước bạn Lào rèn luyện và nâng cao trình độ chiến đấu.
Việc các lực lượng Pathết Lào hoàn thành chuyển quân tập kết, kịp thời triển khai kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng và sẵn sàng chiến đấu giữ vững địa bàn tập kết đã tạo điều kiện ban đầu rất quan trọng để củng cố, tăng cường thực lực cho cách mạng Lào, đồng thời cũng là nhân tố tích cực để phát huy mối quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào.
Đầu tháng 4 – 1955, Đảng nhân dân Lào đã chính thức được thành lập mở ra một thời kì mới cho cách mạng Lào. Đồng thời lực lượng chiến đấu của Lào cũng không ngừng phát triển.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Lào cùng với sư giúp đỡ, phối kết hợp chiến đấu của cố vấn quân sự Việt Nam quân và dân Lào đã liên tiếp dành được nhiều thắng lợi quan trọng gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề, tạo ra bước phát triển mới cho cuộc chiến.
Phải nhận nhiều thất bại liên tiếp, đế quốc Mĩ không ngừng tăng cường vf* mở rộng chiến tranh đồng thời thực hiện những âm mưu hết sức thâm độc. Trong bối cảnh đó để đối phó với âm mưu của đế quốc Mĩ, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào không ngừng tăng cường và củng cố quan hệ đoàn kết chiến đấu đó là động lực quan trọng thúc đẩy cách mạng hai nước phát triển để từng bước đánh bại âm mưu của đế quốc Mĩ.
Vượt qua những khó khăn của cuộc chiến, các lực lượng vũ trang yêu nước Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam đã phối hợp chiến đấu dũng cảm, đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của địch vào Thủ đô Viêng Chăn, đồng thời mở rộng tiến công địch ở nhiều nơi, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, trong đó có nhiều địa bàn chiến lược quan trọng. Những kết quả đó là thắng lợi của đường lối hòa bình, trung lập, hòa hợp dân tộc của Đảng Nhân dân Lào và cũng là thắng lợi của sự phối hợp, đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào.
Do bị thất bại nặng nề và liên tiếp trên các mặt trận, nhất là trong thời gian từ 1961 – 1962, đế quốc Mĩ buộc phải có sự nhượng bộ có lợi cho cách mạng hai nước. Chiến dịch Nặm Thà (5 – 1962), đế quốc Mỹ và chính quyền Viêng Chăn phải thành lập Chính phủ liên hiệp dân tộc lần thứ hai, có lực lượng Pathết Lào tham gia (12/6/1962) và ký kết Hiệp định Giơnevơ (23/7/1962) với sự tham gia của 14 nước, công nhận nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.
Để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị ngày 5 tháng 9 năm 1962, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đầu năm 1963 vua Lào Xỉxávàng Vắthana dẫn đầu đoàn đại biểu Hoàng gia Lào thăm Việt Nam. Trong buổi chiêu đãi vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một giải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em… Ngày nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt – Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”. Thật là:
“Thương nhau mấy núi cũng trèo.
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
Việt – Lào, hai nước chúng ta
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Lãnh đạo Đảng Nhà nước hai bên có nhiều cuộc hội đàm thảo luận những vấn đề quan trọng và đề ra nhưng phương hướng, nhiêm vụ trong từng giai đoạn cụ thể, chuẩn bị những điều kiện cơ bản cho cuộc chiến lâu dài. Từ cuối năm 1963, đầu năm 1964, Việt Nam cử nhiều đoàn chuyên gia cũng như cán bộ quân sự sang giúp đỡ nước bạn Lào xây dựng lực lượng vũ trang.
Những hoạt động phối hợp giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào trong xây dựng lực lượng và chiến đấu nói trên đã tạo sự chuyển biến rất có lợi về quân sự, chính trị cho lực lượng cách mạng Lào, góp phần bảo vệ và mở rộng tuyến đường tây Trường Sơn vươn dài tới các chiến trường.
Từ giữa năm 1965, do bị thất bại nặng nề trong âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng và không thực hiện được ý đồ phá hoại, đế quốc Mĩ tăng cường chiến tranh leo thang mở rộng ra nhiêu địa bàn ở cả hai nước.
Trước tình hình trên, và yêu cầu tăng cường tình đoàn kết chống kẻ thù chung, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng nhân dân Lào đã có nhiều lần hội đàm, tiếp tục phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau. Trong đó Đảng Lao động Việt Nam đã ra một nghị quyết quan trọng, đó là: “Việt Nam cần phải nỗ lực đáp ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối với công cuộc phát triển cách mạng Lào”.
Thực hiện chủ trương giúp đỡ lẫn nhau đã được hai Đảng thống nhất, ngay từ giữa năm, nhất là từ cuối năm 1965 trở đi, Việt Nam cử một số đơn vị quân tình nguyện và các đoàn chuyên gia quân sự, chính trị, kinh tế, và văn hóa sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, kề vai sát cánh với quân và dân Lào xây dựng vùng giải phóng và nâng cao sức mạnh chiến đấu.
Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa quân và dân hai nước Việt Nam và Lào. Đồng chí Cay Xỏn Phômvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt Nam (12 – 1968) đã nhấn mạnh: “
Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Những thắng lợi đó góp phần củng cố thêm sự gắn bó mật thiết giữa hai Đảng và hai dân tộc Việt Nam – Lào.
Để đối phó với những âm mưu mới của địch, từ năm 1969, hai nước Việt Nam – Lào càng tích cực đẩy mạnh các hoạt động phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt (quân sự, chính trị - ngoại giao, phát triển kinh tế - văn hóa…).
Với sự nỗ lực vượt bậc của bản thân và cùng với sự đoàn kết, giúp đỡ vô tư, trong sáng của Việt Nam, cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng khẳng định tình đoàn kết Việt – Lào và tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.
Những chiến thắng to lớn về nhiều mặt đã tạo bước đà quan trọng đưa tới việc kí kết hiệp định “lập lại hòa bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào” giữa chính phủ Viêng Chăn với lực lượng yêu nước Lào (21/2/1973), tạo điều kiện và thời cơ rất thuận lợi để thúc đẩy cách mạng Lào tiến lên, đồng thời mở ra cơ hội mới cho liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào đẩy mạnh đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn.
Từ giữa năm 1973 Việt Nam từng bước rút chuyên gia ở tỉnh và huyện ở Lào về nước (rút trước tháng 5-1974), đồng thời điều chỉnh các lực lượng chuyên gia và quân tình nguyện còn lại để phối hợp và giúp Lào thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới trên tất cả các mặt.
Sự phối hợp chặt chẽ và giúp đỡ hiệu quả giữa Việt Nam và Lào đã làm cho thế và lực của cách mạng Lào lớn mạnh vượt bậc, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng lan rộng và sôi nổi, nhất là ở Thủ đô Viêng Chăn, buộc Chính phủ liên hiệp phải chấp nhận Cương lĩnh chính trị 18 điểm và Chương trình hành động 10 điểm do Mặt trận Lào yêu nước đưa ra (12-1974), đồng thời góp phần hỗ trợ tích cực cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia anh em giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong tháng 4-1975, nhất là chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975) của nhân dân Việt Nam, đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân Lào tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Dẫn tới việc nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời (tháng 12 năm 1975) . Đó là thắng lợi to lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng
là thắng lợi quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào.Như vậy, trong lịch sử quan hệ đoàn kết đặc biệt, liên minh chiến đấu của quân và dân hai nước Việt Nam, Lào, thời kỳ 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) thực sự là một cuộc trường chinh đầy khó khăn, gian khổ, song cũng rất đỗi sôi động và hào hùng. Cả hai bên đã cùng nhau sát cánh chiến đấu kiên cường từng bước đánh bại âm mưu xâm lược của đế quốc Mĩ và tay sai.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975) thể hiện nghị lực và quyết tâm của cả hai dân tộc Việt Nam – Lào trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung để giành độc lập, tự do, kết tinh sức mạnh đoàn kết của quan hệ đặc biệt, liên minh chiến đấu giữa quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào. Thắng lợi đó tạo nền móng vững chắc để tăng cường, phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong thời kỳ lịch sử mới.
Chấm dứt chiến tranh, quan hệ Việt – Lào bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực. Trong xu toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra với 1 tốc độ ngày càng nhanh, vì thế cả hai nước đều đứng trước những cơ hội hết sức thuận lợi song bên cạnh đó cũng là những thách thức không dễ vượt trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước…
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh với tư thế ngẩng cao đầu của người chiến thắng, tuy vậy do chiến tranh kéo dài vì vậy nó đã gây ra những hậu quả vô cùng nặng nề về mọi mặt. Việc đầu tiên cả hai nước cần gấp rút làm đó là khắc phục hậu quả của chiến tranh, nhưng trước mắt là những khó khăn thử thách rất lớn đòi hỏi hai nước phải vượt qua. Đó là, điểm xuất phát của cả hai nước đều là những nước nghèo, lạc hậu, quản lí và vận hành nền kinh tế còn yếu kém. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch tiếp tục ra sức chống phá mạnh mẽ chia rẽ cách mạng hai nước, tình hình quốc tế cũng có nhiều khó khăn, hệ thống CNXH trên toàn thế giới bắt đầu bước vào thời kì trì trệ…Tất cả là những vật cản gây khó khăn đối với mối quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và Lào. Mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn nhưng vẫn có những thuận lợi cơ bản cho quan hệ của hai nước, đặc biệt trong đó là ở mỗi nước đều có Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, ở Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam, ở Lào là Đảng nhân dân cách mạng Lào. Do vậy hai bên có những điểm tương đồng về quan điểm trong hợp tác cũng như trong xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời phát huy mạnh mẽ truyền thống gắn bó đoàn kết gắn bó trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược về nhiều mặt. Đây là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ và được nâng thành mối quan hệ đặc biệt giữa hai Đảng Nhà nước và nhân dân Việt – Lào.
Những năm đầu sau chiến tranh, hai nước đã có nhiều hoạt động để tăng cường và củng cố mối quan hệ hữu nghị. Việt Nam đã tiến hành rút hết quân đội và chuyên gia về nước đồng thời xúc tiến việc hoạch định đường biên giới giữa hai quốc gia. Cũng trong thời gian này phía Việt Nam đã ra nghị quyết về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn mới, xác định đây là mối quan hệ chiến lược của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt, cả hai bên đã tiến hành các cuộc gặp gỡ và các chuyến thăm của các đồng chí lãnh đạo cấp cao để trao đổi các vấn đề quan trọng trong quan hệ giữa hai bên để tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị của hai Đảng Nhà nước và nhân dân hai nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền lợi ích chính đáng của cả hai bên. Hai bên cũng đã kí các hiệp ước về tăng cường hợp tác hữu nghị giữa hai Nhà nước, về hoạch định biên giới quốc gia và tuyên bố chung về tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước. Tất cả là kết quả của sự tin cậy, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau và tinh thần đoàn kết trong sáng giữa hai bên theo tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và nguyên tắc bình đẳng tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Từ đó đến nay một nước đã tiến hành hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực (chính trị, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, văn hóa kinh tế, giáo dục, khoa học kĩ thuật…) trong công cuộc xây dựng phát triển kinh tế đất nước và bảo vệ an ninh Tổ quốc. Do có sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau đặc biệt là truyền thống hợp tác nên quan hệ giữa hai nước đã nở hoa thơm kết trái ngọt đúng như mong ước của Đảng Nhà nước và nhân dân hai bên. Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Lào đã mang lại nhiều thành tựu hết sức to lớn trên nhiều mặt, có ý nghĩa quan trọng phát triển đất nước cũng như bảo vệ Tổ quốc.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://thptnghen.edu.vn là vi phạm bản quyền
Ý kiến bạn đọc