Rss Feed Đăng nhập

18 vị Vua Hùng là ai?

Đăng lúc: Chủ nhật - 02/04/2017 11:33 - Người đăng bài viết: sinhhoc
"Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba". Câu ca dao nhắc nhớ mỗi người về ngày giỗ Tổ các vị vua Hùng của dân tộc Việt Nam. Vậy 18 vị vua Hùng là ai?
Năm 2007, Quốc hội chọn ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch hằng năm làm ngày Quốc giỗ nhằm ghi nhớ công ơn các vị vua Hùng.
Đền thờ vua Hùng tại Suối Tiên - Ảnh tư liệu
Trong "Hỏi gì đáp nấy" (tập 19, NXB Trẻ, 2010, trang 41) Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Lân Dũng viết: "Thật ra thì 18 đời Vua chỉ là con số biểu trưng, có nghĩa là nhiều đời Vua, truyền nối lâu dài. Không ai biết được 18 Vua Hùng có tên là gì đâu, đừng cất công tìm vô ích".
Nhưng trong "Thế thứ các triều vua Việt Nam"(Nhà xuất bản Giáo dục, 2008, trang 14-15), nhà sử họcNguyễn Khắc Thuần viết đích danh18 vị vua Hùng:
1. Kinh Dương Vương 2879 - 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Huý là Lộc Tục .
           2. Hùng Hiền vương còn được gọi là Lạc Long Quân : 2793 - 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm .
               3. Hùng Lân vương:       2524 - 2253 TCN
               4. Hùng Việp vương:     2252 - 1913 TCN
               5. Hùng Hi vương :       1912 - 1713 TCN
               6. Hùng Huy vương:     1712 - 1632 TCN
               7. Hùng Chiêu vương:  1631 - 1432 TCN
               8. Hùng Vĩ vương:        1431 - 1332 TCN
               9. Hùng Định vương:    1331 - 1252 TCN
              10. Hùng Hi vương:       1251 - 1162 TCN
              11. Hùng Trinh vương: 1161 - 1055 TCN
              12. Hùng Vũ vương:      1054 - 969 TCN
              13. Hùng Việt vương:    968 - 854 TCN
              14. Hùng Anh vương:    853 - 755 TCN
              15. Hùng Triêu vương:  754 - 661 TCN
              16. Hùng Tạo vương:     660 - 569 TCN
              17. Hùng Nghị vương:   568 - 409 TCN
              18. Hùng Duệ vương:    408 - 258 TCN
18 vị vua Hùng tuổi thọ bao nhiêu?
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính.Cuốn Đại Việt sử lược, (một tác giả khuyết danh, ra đời vào thời nhà Trần). Đây là cuốn sử biên niên thuộc hàng sớm nhất củaViệt Namcòn được lưu truyền cho đến nay,chép rằng: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (696 – 681 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.
Ban thờ chính tại Đền Thượng tại Khu di tích đền Hùng (thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) - Ảnh tư liệu
18 đời vua Hùng nối nhau trị vì trong 2.622 năm. Con số này cũng có nhiều giả thuyết.
Cũng trong Đại Việt sử lược là tác phẩm đầu tiên đề cập tới và dường như dữ kiện đó được nhiều tác phẩm sử học, khảo cứu sau này ghi chép theo, thậm chí các tác phẩm ở dạng diễn ca cũng viết:
Xưng Hùng Vương, cha truyền con nối,
Mười tám đời một mối xa thư,
Cành vàng lá ngọc sởn sơ,
Nước xưng một hiệu, năm dư hai nghìn.
(Thiên Nam minh giá)
Đền thờ Hùng Viên tại Thảo Cầm Viên Hoặc như một số câu đối ca ngợi về thời đại Hùng Vương cũng đề cập đến có số 18. Thí dụ:
Thập bát truyền vi quân vi vương, trùng xuất tiên nga duy mạt tạo
Ngũ thập tử quy sơn quy hải, biệt trung thần nữ thiệu anh phong.
Nghĩa là:
Mười tám đời truyền làm quân làm vương, hai vị tiên nga cuối dòng họ
Năm mươi con lên núi, xuống biển, một nàng thần nữ nối ngôi cha.
Hay như câu đối:
Nam thiên thập bát thế xa thư, sơ đầu đệ nhất thánh.
Tâynhạcức vạn niên hương hỏa, thượng đẳng tối linh thần.
Nghĩa là:
Trời Nam 18 đời truyền kiếp, buổi đầu đệ nhất thánh.
Tây nhạc ức vạn năm hương hỏa, thượng đẳng tối linh thần.
Chỉ có 18 đời vua mà cai trị 2.622 năm đã gây ra không ít hoài nghi, tuy nhiên trong các bản Ngọc phả, thần tích như bản Ngọc phả Hùng Vương được soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (980) đời vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nhà Tiền Lê thì không phải là 18 đời vua Hùng mà là 18 nhành/ngành với tổng cộng 180 đời vua:
“Dĩ thượng Hùng đồ thập bát diệp, tỷ phú truyền cơ thái bảo, nhất bách thập bát đại đế vương tốn vị nhất thống sơn hà”
Nghĩa là:
“Mười tám nhành nhà Hùng, ngọc tỷ và ấn tín truyền quyền đại bảo trong khoảng 180 đời nhường ngôi đế vương, một mối non sông xa thư trị nước”.
Nhiều tác phẩm khác như Tân đính Lĩnh Nam chích quái của nhà sử học thời Hậu Lê là Vũ Quỳnh cũng viết là 18 ngành vua Hùng.
Trong Ngọc phả Hùng Vương thì chữ “đời” phải hiểu là chữ “thế” trong Hán tự có nghĩa là không phải một đời người mà là “một dòng gồm nhiều đời”. Hiện ở đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, Hà Nội, còn bài vị “Tam Vị Quốc Chúa” thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc thế/chi/nhành Hùng Vương thứ 18.
Sơ khai Nam Việt hữu Kinh Dương,
Nhất thống sơn hà thập bát vương.
Dư bách hệ truyền thiên cổ tại,
Ức niên hương hoả ức niên phương.
Nghĩa là:
Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương
Mười tám ngành vua, mười tám chương.
Bách Việt sơn hà muôn thuở đó,
Đời đời đèn nến nức thơm hương.
Việt Sử Tiêu Án là bộ sách sử viết bởiNgô Thì Sĩ, hoàn thành năm 1775. Tác phẩm đề cập đến lịch sử Việt Nam từ thời thượng cổHồng Bàngđến giai đoạn ngoại thuộcnhà Minh.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ viết: “Người ta không phải là vàng đá, sao lại sống lâu được như thế? Điều ấy càng không thể hiểu được” (Việt sử tiêu án).
Việt Nam sử lược là tác phẩm do nhà sử họcTrần Trọng Kim biên soạn năm1919. Tác phẩm này là cuốn sách lịch sử Việt Nam đầu tiên viết bằng chữquốc ngữ, hệ thống lại toàn bộ lịch sử nước Việt (cho đến thờiPháp thuộc) và được đánh giá là một trong những cuốn sách sửViệt Namcó phong cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu. Sách được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1920 và được tái bản rất nhiều lần, có lúc đã được dùng làm sách giáo khoa tạimiền Namtrước năm 1975.
Trong Việt Nam sử lược, nhà sử học Trần Trọng Kim cũng viết: “…Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm. Dẫu là người đời thượng cổ nữa thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lâu được như vậy”.
Bác Hồ nói chuyện tại đền Hùng
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước thì Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Bác đã nói chuyện với các chiến sĩ vào sáng ngày 19-9-1954 tại cửa Đền Giếng trong khu di tích Đền Hùng thuộc núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Lâm Thau, tỉnh Phú Thọ trước cán bộ Đại đoàn Quân tiên phong.
        Từ tháng 7 đến tháng 9-1954, trước khi về Hà Nội, Bác Hồ và cơ quan Trung ương chuyển từ xã Kim Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang về thôn Vai Cầy, xã Văn Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Ngày 18-9-1954, Bác đi từ Đại Từ (Thái Nguyên) trên chiếc xe Zeep mang biển số KT-032 (KT ký hiệu của Ban kiểm tra 12 – Bí danh của Văn phòng Phủ Thủ tướng) do đồng chí Ngọc điều khiển. Sáng 19-9-1954, Bác đi thăm khu vực di tích Đền Hùng.
         Khoảng 9 giờ, có cán bộ của Trung đoàn 102 (Trung đoàn Thủ đô), Trung đoàn 36, Trung đoàn 88 (Tu Vũ) và một số Tiểu đoàn trực thuộc của Đại đoàn đi từ 5 hướng: Từ núi Thằn Lằn (Vĩnh Phúc), từ Gia Thanh (Phù Ninh), từ Trại Cờ (Hiệp Hòa, Bắc Giang), từ Đại Từ ( Thái Nguyên) và từ Phùng (Hà Nội) đến hội tụ. Ngoài ra, còn có cán bộ văn công của Đại đoàn và nhà báo Nguyễn Khắc Tiệp – phóng viên báo Quân đội nhân dân. Bác ngồi trên cửa ngách bên phải Đền Giếng, đồng chí Song Hào và đồng chí Thanh Quảng ngồi trên bậc lát gạch cạnh Bác. Khoảng gần 100 các đồng chí cán bộ, chiến sĩ của Đại đoàn ngồi dưới sân Đền nghe Bác nói chuyện.
        Trong hồi tưởng của Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng thì vào thời điểm 9-1954, ông là Phó Chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308 và là người có mặt trong buổi nói chuyện lịch sử ngày 19-9-1654 của Bác. Trong buổi gặp mặt đó Bác đã giảng giải: “Đền Hùng thờ các vua Hùng. Hùng Vương là người sáng lập ra nước ta, là Tổ tiên của dân tộc ta”. Tiếp theo Người nói: “Ngày xưa, các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đồng thời Bác căn dặn và giao nhiệm vụ cho đơn vị về tiếp quản Hà Nội và nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của Cách mạng Việt Nam, của Quân đội nhân dân Việt Nam.
         Ghi nhớ lời dạy của Chủ tịch ,nối tiếp truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc,biết bao thế hệ cha anh đã ngã xuống vì độc lập,thống nhất toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại(1954-1975),chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam(1978),chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (1979) . Ngày nay trong cuộc đấu tranh kiên trì không mệt mỏi để bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo ,Đảng,nhà nước và toàn thể nhân dân ta tiếp tục đoàn kết phát huy mọi tiềm lực của quốc gia để giữ vững những thành quả của các Hùng vương,của lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc Việt Nam.
                                                                        
Tác giả bài viết: Đoàn Hiền
Từ khóa:

ngày giỗ, ca dao, dân tộc

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

VĂN BẢN MỚI

Số: Số 19/KH-CĐCS
Tên: (KẾ HOẠCH Tổ chức Tết Trung thu năm 2023)

Ngày BH: (22/09/2023)

Số: Quyết định phê duyệt danh mục Sách lớp 11 năm học 2022 - 2023 của trường THPT Nghèn
Tên: (danh mục Sách lớp 11 năm học 2022 - 2023)

Ngày BH: (19/06/2023)

Số: 1330/QĐ-UBND
Tên: (Phê duyệt sách giáo khoa lớp 4, lớp 8, lớp 11 và sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 10)

Ngày BH: (09/06/2023)

Số: 42/TB-SGDĐT
Tên: (Về việc thăm dò dư luận đối với các cá nhân đề nghị xét tặng danh hiệu "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú" lần thứ 16 - Năm 2023)

Ngày BH: (09/01/2023)

Số: Số: 98/QĐ-THPTN
Tên: (Quy định học trực tuyến)

Ngày BH: (04/09/2021)

Số: Số: 97/KH-THPTN
Tên: (Kế hoạch dạy học trực tuyến - THPT Nghèn)

Ngày BH: (04/09/2021)

Số: SNV-CCVC
Tên: (V/v hướng dẫn một số nội dung về lấy ý kiến nhận xét, đánh giá để thực hiện việc khắc phục sai phạm trong công tác tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức theo Kết luận số 71-KL/TW của Ban Bí thư)

Ngày BH: (21/12/2020)

Số: 3313/BGDĐT-GDĐH
Tên: (Điều chỉnh lịch triển khai công tác tuyển sinh)

Ngày BH: (28/08/2020)

Số: 61 /KH-THPTN
Tên: (Thực hiện công văn chỉ đạo Số: 611/SGDĐT-GDPT, ngày 16/4/2020 và các công văn hướng dẫn của Sở về việc dạy học qua Internet trong thời gian qua, Trường THPT nghèn xây dựng quy định về việc dạy học qua Internet trong thời gian tới như sau:)

Ngày BH: (18/04/2020)

Số: Số: 239-KH/TWĐTN-TNTH
Tên: (KẾ HOẠCH Tổ chức Cuộc thi tìm hiểu lịch sử, văn hóa dân tộc “Tự hào Việt Nam” lần thứ III, năm học 2019 - 2020)

Ngày BH: (18/10/2019)

Danh mục

Thư viện hình ảnh

  Hoạt động

-1 photos | 4221 view

  Giải trí

1 photos | 3921 view

  Kỷ yếu

0 photos | 2491 view

Thống kê

  • Đang truy cập: 15
  • Hôm nay: 2737
  • Tháng hiện tại: 13511
  • Tổng lượt truy cập: 8145382

Hỗ trợ online

Võ Đức Ân
0964867606