Rss Feed Đăng nhập

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG THƠ CA KHÁNG CHIẾN

Đăng lúc: Thứ năm - 18/10/2018 06:42 - Người đăng bài viết: Trần Thanh Nga
    Như một nguồn mạch dạt dào, bất tận; như một dòng chảy mạnh mẽ không ngừng; hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đã đi vào văn học một cách hết sức tự nhiên, và rồi cứ thế xuất hiện xuyên suốt trên hầu khắp các trang viết của mọi thế hệ từ xưa tới nay.
     Thơ ca Việt Nam hiện đại đã phơi bày mạch cảm xúc dâng trào của các nhà thơ khi thể hiện, ngợi ca về một giai đoạn lịch sử thần thánh, về đất nước con người Việt Nam anh hùng, đặc biệt là ngợi ca về người phụ nữ. Trong những năm chiến đấu ác liệt chống Pháp và chống Mỹ, các nhà thơ đã dành những vần thơ đẹp đẽ nhất để tái hiện lại hình ảnh những con người mềm mại, thanh tao những vô cùng kiên cường bất khuất,  sẵn sàng hy sinh tình yêu, quyền lợi riêng tư… để cùng dấn thân  vào cuộc chiến, giành lấy độc lập tự do cho Tổ quốc thân yêu.
     Không còn thấy những tiếng than thân trách phận; những lời thở than đau buồn,trong không khí của cuộc cách mạng sục sôi và dưới ánh sáng của lý tưởng mới, hơn bao giờ hết hình ảnh người phụ nữ hiện lên với vẻ đẹp mới. Vẻ đẹp của những con người đã được giải phóng hoàn toàn, tháo ra khỏi vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến, để hòa mình vào công cuộc chung của đất nước. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, hình ảnh người phị nữ hiện lên thật mạnh mẽ không chỉ trong ý thức trách nhiệm mà cả trong tư thế, hành động. Đó là những người con gái Bắc Giang - những người con gái của cuộc đời mới, gánh vác việc chung không kém sức trai.
             Em là con gái Bắc Giang
            Rét thì mác rét nước làng em lo
            Nhà em phơi lúa chưa khô
            Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
           Nhà em con bế con bồng
           Em cũng theo chồng đi phá đường quan

                                              (Phá đường – Tố Hữu)
Người đọc cảm nhận rõ được sự khác biệt giữa cuộc sống của người phụ nữ trong nô lệ và trong chiến đấu. Chiến tranh là khốc liệt. Những người phụ nữ ấy, bằng tình yêu sâu nặng đối với quê hương, đất nước đã coi công việc đào đường gian khổ như tham gia một cuộc thi hết sức vui vẻ:
             Hì hà hì hục
             Lục cục lào cào
             Anh cuốc em đào
            Đá lở đất nhào!
            Nào anh bên trai
           Nào em bên nữ
          Ta thi nhau thử
          Ai nào hơn ai!
       Anh tài thì em cũng tài
Đường dài ta sẻ, sức dai ngại gì.
                                       (Phá đường – Tố Hữu)
            Khi đất nước chìm trong nô lệ đau thương, người phụ nữ cũng cùng chịu chung số phận khổ đau. Đất nước vùng lên đấu tranh, họ không kém phần quả cảm, cùng xông pha trên cả hai mặt trận: tiền tuyến và hậu phương. Hình ảnh đẹp đẽ, tràn đầy sức sống và dũng khí của những nữ anh hùng đó đã được nhà thơ Tố Hữu khắc họa thành công trong các sáng tác của mình. Đó là những người mẹ một đời lam lũ nhưng kiên cường, cống hiến hết sức lực còn lại cho cách mạng, đó là những người con gái dũng cảm, dám hi sinh thân mình cho Tổ quốc... và rất nhiều, rất nhiều những tấm gương khác mà ta có thể tìm thấy trong thơ Tố Hữu.
          Ngay từ những sáng tác đầu tay, Tố Hữu đã có cái nhìn đúng đắn về vai trò của quần chúng đối với sự nghiệp cách mạng. Đặc biệt, trong những năm tháng hoạt động kháng chiến, ông được sống gần nhân dân, được các mẹ, các chị chở che, đùm bọc. Điều này, giúp ông cảm nhận chân thực nhất tình cảm mãnh liệt của họ dành cho đất nước. Thi hứng của ông thường được bắt nguồn từ chính những tấm gương trong hiện thực của cuộc chiến đấu gian khổ. Một hình ảnh đã được Tố Hữu nâng lên thành biểu tượng bất khuất về người phụ nữ Việt Nam, đó là Mẹ Suốt, người mẹ chèo đò trên sông Nhật Lệ:
                             Một tay lái chiếc đò ngang
                     Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
                                Sợ chi sóng nước tàu bay
                    Tây kia ta đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!
                                Kể chi tuổi tác già nua
                     Chống chèo xin cứ thi đua đến cùn”
                                                               (Mẹ Suốt)
    Lời bộc bạch giản dị, chân tình của mẹ đã khiến bao thế hệ cảm phục và xúc động:
                          Gan chi, gan rứa, mẹ nờ
                      Mẹ rằng: Cứu nước, mình chờ chi ai?
                          Chẳng bằng con gái, con trai
                     Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
                        Tàu bay hắn bắn sớm trưa
                  Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò...
                                                          (Mẹ suốt)
      Dường như với mẹ, việc chèo đò đưa quân, việc cách mạng là một lẽ thường tình. Hình ảnh mẹ Một tay lái chiếc đò ngang đã trở thành “nguồn sức mạnh cổ vũ động viên hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ ta vững tay súng ở chiến trường đánh Mỹ” (Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước, NXB Phụ nữ, 2007). Sẽ còn mãi trong tâm trí mọi người dân đất Việt bức tượng đài của mẹ, một người phụ nữ hiên ngang, bất khuất:
                            Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
                     Gió lay như sóng biển tung trắng bờ
                                                            (Mẹ Suốt)
     Có thể thấy, thơ Tố Hữu luôn dành tiếng nói yêu thương, lòng trân trọng và tình cảm xúc động, thành kính khi viết về những người mẹ. Đó là những bà Bủ, bà Bầm, là “bà mẹ Việt Bắc”, những người tưởng chừng cả đời chỉ biết gắn bó với cây rau rừng, với củ mài, củ sắn không biết đến đấu tranh, đến chính trị nhưng bằng tình cảm yêu quê hương, đất nước của một người con đất Việt, họ đã ý thức được trách nhiệm với cuộc kháng chiến của dân tộc. Có người không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng đã hy sinh chồng và hai con trai mình cho đất nước, đó là một sự hy sinh thầm lặng và cao cả.
     Hình ảnh “bà má Hậu Giang”, người má kiên trung nuôi giấu cán bộ, bất chấp hiểm nguy một mình bám trụ với mảnh đất chết, “lom khom đi lượm củi khô” nấu cơm cho Việt minh... đã khắc sâu trong tâm trí của người đọc. Trong kháng chiến, những người chiến sĩ cộng sản đã không thể cầm được nước mắt trước lời nhắn nhủ của má:
                               Má già nhắm mắt rưng rưng:
                              Các con ơi! Ở trong rừng U Minh
                              Má có chết một mình má chết
                              Cho các con trừ hết quân Tây!
                                             (Bà má Hậu Giang)
      Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hình ảnh người thiếu nữ Việt Nam là hình tượng khá trọn vẹn và có tính chất lí tưởng: đó là những cô gái Trường Sơn bám chốt mở đường, cô nữ pháo thủ gan dạ, cô nữ sinh sông Hương hăng hái tham gia chiến đấu, nữ y sĩ lăn lộn giữa rừng để nghiên cứu căn bệnh sốt rét, cô gái đồng chiêm đảm đang cần mẫn… Tuy hoạt động trên nhiều tuyến đường khác nhau nhưng tất cả đều mang tinh thần của những cô gái Trường Sơn.
                    Mười tám tuổi, em bắt đầu với con đường của Đảng,
        Đường đánh Mỹ, đường Bắc Nam xuyên qua những lèn cao đá phẳng!
                            Em đạp phăng mười bậc,
                            Em hạ dốc Ba Thang.
                            Em đi giữa thác lũ nắng ngàn
                            Em chấp cả bùn lầy vắt muỗi”…
                                             (Đường em làm, đường em đi)
           Thi nhân trân trọng và ngợi ca người phụ nữ của thời đại mới. Họ đến từ trong cuộc đời thực và đẹp như một ước mơ, một lí tưởng. Lưu Trọng Lư là một hồn thơ dễ rung động. Người thiếu nữ trong thơ ông đẹp lắm, không phải vẻ đẹp bề ngoài của đôi mắt bồ câu, nét mày thanh tú mà là vẻ đẹp rạng rỡ của một tâm hồn lạc quan, dũng cảm. Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, nhà thơ đã khắc họa người con gái làng quan họ thật đẹp:             
                      Có cô gái Đảng, giao thông viên
                     Trên đất này, thoăn thoắt bàn chân
                     Như chiếc thoi đưa, đường ngang chỉ dọc.
                                                                (Những dấu chân)
     Càng đi sâu vào cuộc chiến, cái nhìn của Lưu Trọng Lư đối với những người thiếu nữ sâu sắc hơn. Lưu Trọng Lư thích thú khai thác nét chiến sĩ - thi sĩ trong tâm hồn chị em. Bên cạnh tinh thần lạc quan, dũng cảm là một tâm hồn giàu cảm xúc, dễ rung động trước vẻ đẹp của một cánh hoa, một sắc mây và cả những màu sắc lung linh của những vỏ hà vỏ hến. Trải qua bao khó khăn của cuộc chiến đấu, tâm hồn người phụ nữ vẫn giữ nguyên những nét rung cảm nhẹ nhàng ấy:
                     Có chuyện gian khổ suối đèo
                     Có chuyện đau thương bom đạn
                     Nhưng mắt em vẫn giữ một màu xán lạn
                     Hến, hà em vẫn giữ sắc lung linh
                    Mà đường em làm, đường em đi sâu thẳm nghĩa tình.
                                                             (Đường em làm, đường em đi)
     Họ còn là những cô du kích gan dạ, dũng cảm mà giàu lòng yêu thương. Những người con gái ấy còn lấy cả thân mình bảo vệ sự bình yên cho những con tàu:
                     Em lấy tuổi xuân xanh
                     Em lấy cả thân mình
                     Phủ lên thân tàu yêu dấu
                     Em là du kích, em là giao liên
                    Em chính là quê hương ta đó
                    Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương
                    Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương
                   Sao thấy lòng ấm lạ
                   Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn
                   Tiếng đại bác gầm rang vách lá
                   Ôi quê hương ta đẹp quá
                   Dù trên đường còn những hố bom
                  Dù áo em vẫn còn mảnh vá
                  Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son
                  Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn
                                                    (Trở về quê nội – Lê Anh Xuân)
       Và đẹp biết bao hình ảnh những cô thanh niên xung phong trên tuyến lửa Trường Sơn trong thơ Nguyễn Đình Thi:
                    Em đứng bên đường như quê hương
                    Vai áo bạc quàng súng trường
                                                       (Lá đỏ)
     Biểu tượng cao đẹp, vĩ đại, hào hùng nhất, đấy là hình ảnh chị Lý, người con gái anh hùng Việt Nam. Bằng một cảm quan lãng mạn cách mạng, một tấm lòng tôn kính, xót thương vô hạn, Tố Hữu đã khắc họa thành công hình ảnh người con gái Việt Nam bất khuất, kiên trung:
                       Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
                       Không giết được em người con gái anh hùng
                       Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại Còn một giọt máu tươi còn đập mãi
                       Không phải cho em, cho lẽ phải trên đời
                        Cho quê hương em. Cho cả loài người
                                                       (Người con gái Việt Nam)
       Chị là một người con gái Việt Nam anh hùng. Chị đẹp, một vẻ đẹp kiên cường, bất khuất. Dù tra tấn chị dã man nhưng kẻ địch vẫn không thể “giết được em, người con gái anh hùng”. Chị vừa là người góp phần làm nên đất nước, vừa là người con của đất nước, người con bé nhỏ được ôm ấp vỗ về bởi bà mẹ quê hương. Hình ảnh chị cao cả mà giản dị, lớn lao nhưng cũng rất đỗi đời thường, chị giống như bao người phụ nữ Việt Nam yêu nước:
                    Em đã sống bởi vì em đã thắng
                    Em sẽ đứng trên đôi chân tuổi trẻ
                   Đôi gót đỏ lại trở về quê mẹ
                   Em sẽ đi trên đường ấy thênh thang
                  Như những ngày xưa rực rỡ sao vàng.
                                          (Người con gái Việt Nam)
Chị Lý đã trở thành bất tử, thành lẽ sống của dân tộc:
                     Cả nước cho em cho em tất cả
                      Máu tiếp máu cho lại hồng đôi má
                      Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân
                      Cho thịt da em lại nở trắng ngần.
                                   (Người con gái Việt Nam)
      Lâm Thị Mỹ Dạ đã khắc họa hình ảnh người con gái hy sinh với nụ cười không tắt, với làn da tỏa sáng, thoát thành làn mây trắng tinh khôi:
                          Như khoảng trời nằm yên trong đất 
                          Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
                          Những vì sao ngời chói lung linh
                          Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong
                          Đã hóa thành những làn mây trắng.     
                                                       (Khoảng trời hố bom).
      Có thể nói hình tượng người phụ nữ Việt Nam đã tỏa sáng những ánh lân tinh đẹp đẽ trong thơ ca kháng chiến. Sự hi sinh của hó chính là sự hóa thân vào đất mẹ Tổ Quốc nên dù “vùi trong cát” hay “nằm yên trong đất” họ vẫn là “những tấm thân như ngọc sáng ngời”, là “Những vì sao ngời chói lung linh”.
                Chính từ” những viên ngọc sáng ngời”, “những vì sao ngời chói” như thế, cuộc chiến đấu của dân tộc ta đã giành được thắng lợi vẻ vang. Các mẹ, các chị, những người phụ nữ anh hùng đã cống hiến toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp kháng chiến của cách mạng sẽ mãi mãi in dấu trong “hình của nước”. Tất cả đều hiện lên đẹp đẽ bởi mang trong mình hồn thiêng của sông nước.
 Không chỉ rạng ngời trong thơ ca kháng chiến, hình tượng những người phụ nữ đã đi vào những trang viết chảy suốt trong văn học từ trước đến nay, để  trở thành một hình ảnh đẹp đẽ nhất trong sâu thẳm tâm hồn thế hệ người đọc hôm nay và cả mai sau. Vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam ngày nay đã được nâng lên một bước phù hợp với thời đại trong xu thế hội nhập toàn cầu, nhưng vẫn giữ được tính dân tộc đậm đà. Họ vẫn phát huy vẻ đẹp của một thời anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang và còn mang vẻ đẹp về trí tuệ. Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam in dấu ấn trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc.                                                                        
Tác giả bài viết: Đặng Thị Thu Lan – GV Ngữ văn
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

VĂN BẢN MỚI

Số: Số 19/KH-CĐCS
Tên: (KẾ HOẠCH Tổ chức Tết Trung thu năm 2023)

Ngày BH: (22/09/2023)

Số: Quyết định phê duyệt danh mục Sách lớp 11 năm học 2022 - 2023 của trường THPT Nghèn
Tên: (danh mục Sách lớp 11 năm học 2022 - 2023)

Ngày BH: (19/06/2023)

Số: 1330/QĐ-UBND
Tên: (Phê duyệt sách giáo khoa lớp 4, lớp 8, lớp 11 và sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 10)

Ngày BH: (09/06/2023)

Số: 42/TB-SGDĐT
Tên: (Về việc thăm dò dư luận đối với các cá nhân đề nghị xét tặng danh hiệu "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú" lần thứ 16 - Năm 2023)

Ngày BH: (09/01/2023)

Số: Số: 98/QĐ-THPTN
Tên: (Quy định học trực tuyến)

Ngày BH: (04/09/2021)

Số: Số: 97/KH-THPTN
Tên: (Kế hoạch dạy học trực tuyến - THPT Nghèn)

Ngày BH: (04/09/2021)

Số: SNV-CCVC
Tên: (V/v hướng dẫn một số nội dung về lấy ý kiến nhận xét, đánh giá để thực hiện việc khắc phục sai phạm trong công tác tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức theo Kết luận số 71-KL/TW của Ban Bí thư)

Ngày BH: (21/12/2020)

Số: 3313/BGDĐT-GDĐH
Tên: (Điều chỉnh lịch triển khai công tác tuyển sinh)

Ngày BH: (28/08/2020)

Số: 61 /KH-THPTN
Tên: (Thực hiện công văn chỉ đạo Số: 611/SGDĐT-GDPT, ngày 16/4/2020 và các công văn hướng dẫn của Sở về việc dạy học qua Internet trong thời gian qua, Trường THPT nghèn xây dựng quy định về việc dạy học qua Internet trong thời gian tới như sau:)

Ngày BH: (18/04/2020)

Số: Số: 239-KH/TWĐTN-TNTH
Tên: (KẾ HOẠCH Tổ chức Cuộc thi tìm hiểu lịch sử, văn hóa dân tộc “Tự hào Việt Nam” lần thứ III, năm học 2019 - 2020)

Ngày BH: (18/10/2019)

Danh mục

Thư viện hình ảnh

  Hoạt động

-1 photos | 4214 view

  Giải trí

1 photos | 3917 view

  Kỷ yếu

0 photos | 2486 view

Thống kê

  • Đang truy cập: 8
  • Hôm nay: 1646
  • Tháng hiện tại: 135230
  • Tổng lượt truy cập: 8128039

Hỗ trợ online

Võ Đức Ân
0964867606